Huê Nghiêm: Ngôi tổ đình 300 năm tuổi ở đất Sài Gòn – Gia Định

Huê Nghiêm là một trong những ngôi chùa xưa nhất, có thể coi như một “chứng tích” cho đời sống tinh thần của những lưu dân trong buổi đầu đi mở cõi.

Chúng tôi về tổ đình Huê Nghiêm khi trời đã về chiều. Lần tìm ra khu vực nghĩa trang phía sau chùa, ngôi mộ cổ được xây bằng hợp chất ô dước theo kiểu thức đặc trưng của mộ cổ Nam Bộ nằm lặng lẽ ở một góc nghĩa trang…

Trong số những ngôi chùa cổ còn tồn tại đến ngày nay trên đất Sài Gòn, chùa Huê Nghiêm (tọa lạc tại số 204 Đặng Văn Bi, P.Bình Thọ, TP.Thủ Đức) là một trong những ngôi chùa xưa nhất, có thể coi như một “chứng tích” cho đời sống tinh thần của những lưu dân trong buổi đầu đi mở cõi.

Ngôi tổ đình 300 năm tuổi và các thế hệ truyền thừa

Trong một lần hầu cận, chúng tôi được Trưởng lão Hòa thượng Thích Trí Quảng kể lại gốc tích của ngôi tổ đình Huê Nghiêm nhân dịp ngài về tảo tháp chư vị Tổ sư vào cuối năm âm lịch.

Hòa thượng cho biết, tổ đình Huê Nghiêm được Tổ Thiệt Thoại (Thụy) – Tánh Tường (1681-1757) khai sơn vào năm 1721 (năm Tân Sửu), cách nay vừa tròn 300 năm. Ngôi chùa ban đầu chỉ là một am tranh được Tổ khai sơn dựng lên để làm chỗ tu hành, gần một nhánh nhỏ của sông Sài Gòn. Có lẽ am tranh ngày ấy gần với khu dân cư vốn thường gần sông rạch để tiện bề buôn bán, đi lại. Khu vực Tổ Thiệt Thoại dựng am tranh, ngày nay, được cho là gần Nhà máy điện Thủ Đức.

Trưởng lão Hòa thượng Thích Trí Quảng đảnh lễ chư vị Tổ sư trong vườn tháp thuộc tổ đình

Thời gian kiến lập tổ đình của Tổ Thiệt Thoại nhằm vào thời vua Lê Dụ Tông năm Bảo Thái thứ 2, tương đương thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1675-1725) cai quản Đàng Trong. Tổ Thiệt Thoại – Tánh Tường thuộc dòng thiền Lâm Tế, chi phái của ngài Vạn Phong – Thời Úy (1303-1381) theo bài kệ: Tổ đạo giới định tông/ Phương quảng chứng viên thông/ Hành siêu minh thiệt tế/ Liễu đạt ngộ chơn không.

Theo kệ truyền thừa thì Tổ Thiệt Thoại thuộc đời 35, dòng Lâm Tế, tính từ Tổ khai dòng thiền này là Thiền sư Nghĩa Huyền (?-866/867). Theo chi phái Lâm Tế do Tổ Vạn Phong (chùa Thiên Đồng, Trung Hoa) khai lập thì ngài thuộc thế hệ thứ 14 (chữ Thiệt). Ngài là đệ tử của Tổ Minh Vật – Nhất Tri (?–1786), trụ trì chùa Quốc Ân Kim Cang. Ngài Minh Vật – Nhất Tri là đệ tử của Tổ Nguyên Thiều. Ngoài dòng kệ truyền thừa chi phái Lâm Tế của Tổ Vạn Phong, Tổ Nguyên Thiều còn truyền thừa cho đệ tử dòng kệ của Tổ Đạo Mân – Mộc Trần hay còn gọi là dòng Lâm Tế Gia Phổ theo bài kệ: Đạo bổn nguyên thành Phật tổ tiên…

Như vậy, chùa Huê Nghiêm do Tổ Thiệt Thoại khai sơn trực thuộc môn phong của tổ đình Quốc Ân Kim Cang. Tổ không chỉ khai sơn chùa Huê Nghiêm, mà còn khai sơn chùa Long Thọ (Thủ Dầu Một, Bình Dương). Tổ Thiệt Thoại có các đệ tử như Tế Giác – Quảng Châu, Tế Lý – Quảng Đức, Tế Vĩnh – Quảng Nhơn… là những thiền sư nổi tiếng trong vùng, có công đem Phật pháp hoằng hóa trong dân chúng, là bậc long tượng thiền môn.

Tháp Tổ Thiệt Thoại trong khuôn viên tổ đình

Ngài Tế Giác xuất gia với Tổ Thiệt Thoại khi Tổ đã cao niên. Thấy được căn cơ của ngài Tế Giác nên Tổ đã khuyên ngài về cầu pháp tu học với Tổ Phật Ý – Linh Nhạc tại chùa Từ Ân. Khi đến cầu pháp với Tổ Phật Ý, ngài được Tổ giao cho đệ tử là ngài Tổ Tông – Viên Quang (1758-1827) dạy dỗ. Ngài được Tổ Viên Quang đặt cho húy hiệu là Tiên Giác – Hải Tịnh.

Năm 1825, Tổ Hải Tịnh được vua Minh Mạng vời ra làm Tăng cang chùa Linh Mụ. Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), ngài được triều đình cử làm Tăng cang chùa Giác Hoàng trong kinh thành Huế. Về sau Tổ Hải Tịnh đã xin từ chức Tăng cang chùa Giác Hoàng, về lại Gia Định lưu trú tại chùa Giác Lâm. Những năm cuối đời, Tổ đã xiển dương Chánh pháp qua việc độ chúng xuất gia, tại gia; khai mở trường hương, phát triển việc giảng dạy cho chư Tăng như Tổ Viên Quang đã làm trước đó; mở các Đại giới đàn tại chùa Tây An (An Giang), chùa Thiên Ân (Gia Định). Tổ là người có ảnh hưởng đối với Tăng sĩ, quần chúng tại kinh thành Huế và cả miền Nam lúc bấy giờ, là nhà sư “có đức độ, được ca ngợi khắp miền, trải qua 73 năm hành đạo, không lúc nào nhà sư quên đi sự hưng suy của đạo pháp”.

Sau khi Tổ Thiệt Thoại viên tịch, Tổ Tế Lý kế thế trụ trì chùa Huê Nghiêm. Tổ là người có kiến thức và đạo hạnh nên được người trong vùng quy kính. Do chùa lúc bấy giờ nằm ở vùng gần nhánh sông Sài Gòn, vị trí thấp, Tổ có ý dời chùa và được bà Nguyễn Thị Hiên là đệ tử tại gia của Tổ hộ trì, hiến cúng đất để di dời chùa về địa điểm hiện nay, cách chùa cũ khoảng 1km.

Trải qua các đời trụ trì, ngôi cổ tự Huê Nghiêm được trùng tu nhiều lần. Cuối thế kỷ XIX, Tổ Huệ Lưu đứng ra vận động dân làng và nhân dân quanh vùng trùng tu lớn tổ đình. Những lần trùng tu sau này vào các năm 1960, 1969, 1990, 2003 do Tổ Thiện Bửu, Tổ Trí Đức, Hòa thượng Trí Quảng, Hòa thượng Trí Độ vận động. Đến năm 2011, Hòa thượng Thích Trí Quảng (viện chủ tổ đình) và Thượng tọa Thích Minh Đạo vận động đại trùng tu chánh điện với diện mạo như hôm nay.

Hiện nay chùa còn khu vườn tháp với các ngôi tháp cổ của Tổ Thiệt Thoại, Tổ Tế Lý, Tổ Liễu Xuân, Tổ Huệ Lưu, Tổ Thiện Bửu, Tổ Trí Đức và tháp của các ngài kế tự, Tăng chúng.

Giai thoại về bà Hộ Hiên

Bà Nguyễn Thị Hiên (1763-1821) là một người giàu có ở làng Linh Chiểu Đông, thuộc Thủ Đức ngày nay. Bà lại có tấm lòng giúp đỡ người và thường ủng hộ các việc công ích của làng nên người trong vùng thường gọi là bà Hộ Hiên.

Theo lời Hòa thượng Thích Trí Quảng, bà Nguyễn Thị Hiên là đệ tử của Tổ Tế Lý, được ngài ban cho pháp danh Liễu Đạo. Với lòng ngưỡng mộ và quy kính Tổ Tế Lý, bà đã phát tâm hiến cúng đất nơi gò cao để di dời chùa khỏi vị trí ban đầu ở vùng đất thấp ven sông. Tương truyền, lúc cuối đời, bà Hộ Hiên đã vào chùa ở. Từ đó, có hai cách lý giải xung quanh sự việc này: hoặc cuối đời bà vào chùa ở như những người già, muốn nương nơi cửa chùa để sớm hôm kinh kệ cùng Tăng chúng và nhờ chùa lo hậu sự; hoặc bà vào chùa xuất gia tu tập.

Bức họa truyền thần và bài vị của bà Hộ Hiên đang được thờ tại hậu tổ của chùa lại cho thấy đây là bài vị của một cư sĩ: “Phụng vị Hoa Nghiêm tự, hội chủ Nguyễn Thị Hiên, pháp danh Liễu Đạo, tự Thành Tâm chánh hồn, Quý Mùi niên, lương nguyệt, cát thời thọ sanh, Tân Tỵ niên, lục nguyệt, sơ nhất nhật phù thời khứ” – dịch: Chùa Hoa Nghiêm, hội chủ Nguyễn Thị Hiên, pháp danh Liễu Đạo, tự Thành Tâm. Sanh ngày lành giờ tốt, năm Quý Mùi. Mất năm Tân Tỵ, ngày mùng 1 tháng 6. Theo như lối đề văn từ của bài vị, chữ “chánh hồn” dành cho người nữ và “thần hồn” dành cho người nam, không phải là người xuất gia; người xuất gia sẽ dùng chữ “chơn linh” hoặc “giác linh”. Thứ nữa, bài vị cũng cho biết thông tin bà Hộ Hiên là “hội chủ” chùa Huê Nghiêm, tức là người cúng đất làm chùa, dân gian còn gọi là “chủ chùa”. Thường thì những người hiến cúng đất dựng chùa hoặc xây dựng chùa, khi mất, nhà chùa thường thiết lập một bàn thờ riêng với bài vị thờ và hương khói húy kỵ hàng năm. Cũng có thể cuối đời bà vào chùa ở làm “bà vãi” như chúng ta thường được biết với cách “xuất gia thọ tam quy ngũ giới”. Với bức hình họa bà mặc áo gấm thụng với chiếc mão Quan Âm, cũng có cách lý giải cho rằng có thể bà đã thọ giới Bồ-tát với Tổ Tế Lý.

Đối với chùa Huê Nghiêm, sự ly kỳ gắn với câu chuyện tương truyền về hậu thân của bà Nguyễn Thị Hiên. Thầy chúng tôi kể rằng, từ lúc xuất gia đã nghe câu chuyện về sự tái sanh của bà chủ chùa. Khi bà Hiên mất, có nhờ người viết lên tay những thông tin của bà để chứng tỏ công đức bà làm được. Cùng năm bà mất (1821) thì bên nhà Thanh (Trung Hoa), thê thiếp vua Gia Khánh cũng hạ sanh một hoàng nữ. Lúc công chúa sinh ra, bàn tay cứ nắm chặt lại, khi được mở ra thì có dòng chữ: Nguyễn Thị Hiên, Linh Chiểu Đông thôn, Gia Định, Đại Nam. Vua nhà Thanh sai người đi điều tra, xác minh lai lịch bà Nguyễn Thị Hiên thì chứng thực bà đã sống tại chùa Huê Nghiêm, làng Linh Chiểu Đông. Sau đó vua cho sứ sang xây ngôi mộ bà lại, đồng thời hiến cúng tượng Bồ-tát Quan Thế Âm và một số pháp khí. Tượng Bồ-tát Quan Thế Âm bằng đồng hiện nay vẫn còn được thờ tại chùa.

Chúng tôi về tổ đình Huê Nghiêm khi trời đã về chiều. Lần tìm ra khu vực nghĩa trang phía sau chùa, ngôi mộ cổ được xây bằng hợp chất ô dước theo kiểu thức đặc trưng của mộ cổ Nam Bộ nằm lặng lẽ ở một góc nghĩa trang. Ngôi mộ bề thế, gần 20m2 nằm lọt thỏm, thấp hơn mặt đất xung quanh. Kiến trúc ngôi mộ cổ vẫn còn nguyên vẹn với vòng thành, bình phong, nhà bia, nấm mộ. Chỉ tiếc một điều, giờ đây không còn sự u tịch trang nghiêm; thay vào đó là cảnh hoang tàn, hủy hoại theo thời gian và sự xâm lấn của người đời sau.

Theo Pháp Đăng/Báo Giác Ngộ

Hòa Thượng Thích Trí Quảng 
Phát biểu tại Hội Thảo Khoa Học 300 Năm Phật Giáo Gia Định - Sài Gòn - TP Hồ Chí Minh
Diễn Văn Khai Mạc Hội Thảo 
Tổ đình Huê Nghiêm là ngôi chùa cổ có nhiều bậc danh tăng xuất thân
từ đây. Không biết rõ chùa được xây dựng từ năm nào, nhưng theo lịch
sử truyền thừa các vị Tổ sư của chùa, thì ngài Thiệt Thụy-Tánh Tường là Tổ
khai sơn. Căn cứ vào đó, chúng ta biết được chùa Huê Nghiêm cũng đã có
khoảng 300 năm.
Tổ khai sơn nổi tiếng là một vị chân tu đức hạnh, cảm hóa được nhiều đệ
tử, trong đó nổi bật nhất có ngài Tế Giác-Quảng Châu được coi như là vị Tổ
quan trọng nhất ở miền Nam vào thế kỷ XIX.
Ngài Tế Giác cảm đức của Tổ Thiệt Thụy-Tánh Tường nên xuất gia với
Tổ, học được nhiều đức tánh quý báu với bậc thầy đắc đạo. Tuy nhiên, muốn
tiến tu, phát huy trí tuệ, ngoài phần sở đắc nội chứng cần thiết phải có, còn
phải kết hợp thêm phần sở học. Vì vậy, ngài Tế Giác đã đến tham vấn học
đạo với Tổ Phật Ý-Linh Nhạc.
Sau khi dạy ngài Tế Giác, Tổ Phật Ý-Linh Nhạc quán thấy ngài có nhân
duyên với Tổ Tông-Viên Quang nên đã bảo ngài đến cầu học với vị này.
Trên bước đường hành đạo, nhân duyên rất quan trọng, vì có duyên thì
nương theo thầy mới phát triển được.
Mặc dù Tổ Tông-Viên Quang là đệ tử của Tổ Phật Ý, tức đồng huynh đệ
với ngài Tế Giác, nhưng vì vâng lời dạy bảo của Tổ, cũng như không tự ái,
chấp ngã, chỉ quyết tâm học đạo nên ngài Tế Giác đã hết lòng cầu pháp với
Tổ Tông-Viên Quang, nhận vị này làm thầy. Vì vậy, ngài Tế Giác còn có tên
là Tiên Giác-Hải Tịnh, theo dòng truyền thừa của hệ Lâm
Tế Gia Phổ (Đạo Bổn Nguyên Thành Phật Tổ Tiên.
Minh Như Hồng Nhật Lệ Trung Thiên).
Trong thời gian học đạo với Tổ Tông-Viên Quang, ngài Tiên Giác-Hải
Tịnh - tức Tế Giác-Quảng Châu, có cơ hội tiếp xúc với quan Tổng trấn Gia
Định thành là Trịnh Hoài Đức. Cảm mến tài đức của ngài Tế Giác vượt trội
hơn người, có thể Trịnh Hoài Đức đã giới thiệu Ngài với triều đình Huế.
Năm 1825, vua Minh Mạng sắc phong chức Tăng cang cho ngài Tế Giác
và bổ nhiệm trụ trì chùa Thiên Mụ ở Huế. Việc Ngài được cử làm đại diện
chư Tăng miền Nam ra đất thần kinh làm thầy là điều rất hiếm, vì lúc ấy Huế
là kinh đô, có nhiều nhân tài thường vô miền Nam truyền đạo.
Năm 1833, con nuôi của Lê Văn Duyệt là Lê Văn Khôi nổi loạn, chiếm
thành Phiên An (Saigon), chống lại triều đình Huế. Ngài Tăng cang Tế Giác
là người ở Gia Định nên bị nghi ngờ có liên hệ với loạn quân; vì vậy, triều
đình đã cách chức ngài.
Nhưng đứng trước sự đổi thay vinh nhục của trần thế, tâm hồn ngài vẫn
thanh thản, chẳng cần minh oan, vẫn giữ một lòng lo cho đạo pháp. Tâm hồn
trong sáng của Tổ Tế Giác đã làm Tăng chúng cảm kích và khiến triều đình
phải suy nghĩ, điều tra lại. Sau cùng, vua Thiệu Trị đã phục hồi chức Tăng
cang cho ngài và cử làm trụ trì chùa Giác Hoàng.
Trải qua thời gian hành đạo nơi cố đô, Tổ Tế Giác đã độ được một số
cao tăng nổi tiếng. Tiêu biểu như Hòa thượng khai sơn chùa Tường Vân cảm
mến đức hạnh của Tổ, nên đã xin cầu pháp và được Tổ cho pháp hiệu là
Liễu Tánh-Huệ Cảnh (thuộc đời thứ 37, tính theo dòng pháp của Lâm
Tế Chánh Tông:Tổ Đạo Giới Định Tông. hương Quảng Chánh Viên Thông.
Hành Siêu Minh Thiệt Tế. Liễu Đạt NgộChơn Không). Vị này còn có tên là
Tánh Khoát-Đức Giác (thuộc đời thứ 39 của tông Tế Thượng Thiệt Diệu
Liễu Quán: Thiệt Tế Đại Đạo. Tánh Hải Thanh Trừng.
Tâm Nguyên Quảng Nhuận. Đức Bổn TừPhong).
Với trí tuệ của bậc ngộ đạo, đến đâu, làm việc gì đều có mục tiêu, nên
khi hoàn thành xong những việc đáng làm, Tổ Tế Giác đã xin từ chức Tăng
cang, trở về miền Nam hành đạo.
Điều này cho thấy nơi ngài tỏa sáng nét đẹp giải thoát của vị chân tu,
không màng phú quý lợi danh. Người tầm thường khi được địa vị như vậy
thì họ cố bám giữ để tận hưởng, không thể dễ dàng từ bỏ, hoặc khi thấy chỗ
cực khổ thì liền tìm cách lẩn tránh.
Tổ Tế Giác-Quảng Châu, một bậc long tượng trong đạo pháp, tất nhiên
có tư cách phi phàm, bỏ chốn kinh kỳ, về vùng đất còn hoang vu để giáo hóa
độ sanh, thành tựu những việc lợi ích cho đời, rạng danh cho đạo.
Thật vậy, bằng tầm nhìn xa thấy rộng, ngài quán thấy nên trở lại miền
Nam truyền giáo, phát triển đạo pháp lợi lạc hơn, vì nơi đó hội đủ duyên
lành; nói cách khác, miền Nam hiện hữu những mầm non có căn lành đang
cần ngài giáo dưỡng.
Về miền Nam, ngài cố tìm những người có căn tánh sáng suốt để khai
ngộ. Trên bước đường giáo hóa, Tổ Tế Giác gặp một thanh niên bẩm chất
thông minh, căn tánh hiền lành, phát tâm xin xuất gia. Độ được đệ tử có căn
lành như vậy, nên Ngài đặt pháp hiệu cho vị này là Đại Cơ-Đức Huân (thuộc
Lâm Tế dòng Thiệt Diệu Liễu Quán đời thứ 37).
Sau đó, trong hàng pháp tôn của Tổ Tế Giác có ngài Đạo Trung-Thiện
Hiếu, thường nổi danh là Tổ Đỉa. Vị này truyền bá Phật pháp cả vùng Biên
Hòa, Sông Bé, Tây Ninh, khai sơn nhiều chùa như Linh Sơn ở núi Bà Đen,
Long Hưng hay thường gọi là chùa Tổ ở Bưng Đỉa (Sông Bé), chùa Hội
Lâm (xã An Nhơn Tây, Củ Chi)…
Và các chùa nổi tiếng ở miền Nam bắt đầu bằng chữ Hội như: Hội
Khánh, Hội Sơn, Hội Lâm, v.v… hay chùa Linh Sơn, đều là căn cứ của
Thiên địa hội hoạt động cách mạng cứu nước. Những ngôi chùa này cũng do
các pháp tử, pháp tôn của Tổ Tế Giác khai sơn là ngài Đại Ngạn -Từ Tấn
(chùa Hội Khánh), ngài Đạo Trung-Thiện Hiếu (chùa Hội Lâm, Linh Sơn),
ngài Đạo Thành-Khánh Long (chùa Hội Sơn).
Tìm người để tiếp độ theo tầm nhìn sáng suốt như thế, Tổ Tế GiácQuảng Châu đã đào tạo cho đạo pháp biết bao nhân tài.
Ngoài ra, khi hành đạo ở vùng Gia Định, Tổ Tế Giác-Quảng Châu hay
Tiên Giác-Hải Tịnh đã độ được rất nhiều đệ tử, phát triển mạnh dòng Lâm
Tế Gia Phổ. Trong đó, nổi bật nhất là ngài Minh Khiêm-Hoằng Ân trụ trì tổ
đình Giác Viên (nếu tính theo dòng truyền pháp của Lâm Tế Gia Phổ), hay
Ngài còn có tên là Liễu Khiêm-Chí Thành (nếu tính theo truyền pháp của
Lâm Tế Chánh Tông).
Tổ Tế Giác đã cùng đệ tử Minh Khiêm-Hoằng Ân xuống vùng Châu
Đốc hành đạo vì nhận thấy vùng này có nhiều người nhiệt tâm tu hành,
nhưng không hiểu biết giáo lý đạo Phật. Họ chỉ chuyên luyện bùa phép, tu
các pháp thuật của ngoại đạo. Ngài quán thấy nhân duyên Phật giáo (PG) có
thể phát triển ở đây, nếu được hướng dẫn đúng chánh pháp.
Quả thật, trí tuệ và đức độ của Tổ Tế Giác đã cảm hóa được nhiều người
ở vùng này, đặc biệt có Phật Thầy Tây An quy y với Tổ, được pháp hiệu là
Minh Huyên. Đó là người khai sáng ra phái Bửu SơnKỳ Hương, một phái tu
chuyên chữa bệnh bằng nước lạnh hoặc phù chú. Từ đó, rất nhiều ông đạo
của phái này cũng theo chân Phật Thầy Tây An, quy y Tam bảo, trở thành đệ
tử của Tổ và đóng góp được nhiều công sức, tiền của cho việc phát triển đạo
pháp ở vùng này.
Ngài Minh Khiêm-Hoằng Ân là bậc long tượng, đã phát huy được sự
nghiệp hoằng hóa độ sanh của Tổ Tiên Giác-Hải Tịnh. Thật vậy, ngài Minh
Khiêm một mình, một y, một bát vân du hành đạo khắp miền Tây Nam Bộ.
Ngài cũng hoằng hóa một thời gian rất lâu ở núi Sam, nên thường được gọi
là Tổ núi Sam. Có thể nói PG miền Tây phát triển được là nhờ công lao rất
lớn của ngài Minh Khiêm.
Trong hàng hậu học nối tiếp dòng Lâm Tế Chánh Tông của Tổ Tế Giác,
còn có một vị danh tăng của miền Nam, đó là Tổ Đạt Lý-Huệ Lưu, cũng
xuất thân tu học từ Tổ đình Huê Nghiêm. Ngài còn nổi tiếng là ông vãi bán
khoai. Trên bước đường hành đạo, Tổ Huệ Lưu đã góp phần giáo hóa dân
chúng miền Tây bằng lối thơ mộc mạc. Bộ Trường Hàng luật ra đời cũng do
công đức của Tổ Huệ Lưu sao chép.
Trong thời cận đại, hàng pháp tôn của Tổ Tiên Giác-Hải Tịnh thuộc
dòng Lâm Tế Gia Phổ đã tiếp nối được sự nghiệp hoằng pháp độ sanh. Nổi
tiếng có Hòa thượng (HT) Như Hiền-Chí Thiền hay Tổ Phi Lai; HT Như
Nhãn-Từ Phong, Hội trưởng Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học; HT Như
Trí-Khánh Hòa, sáng lập Lưỡng Xuyên Phật học.
Tóm lại, với căn lành sâu dày trong Phật pháp và được gặp vị thầy đắc
đạo khai ngộ, Tổ Tế Giác-Quảng Châu đã phát huy trí tuệ, đạo đức và dùng
phước trí ấy làm hành trang đi hoằng hóa khắp mọi nơi. Từ đó, nơi nào có
duyên, ngài đến hóa độ; mãn duyên, ngài nhẹ nhàng rời gót, chẳng màng
phú quý, chẳng bận lợi danh.
Hành đạo trên chơn tánh, nên không có gì làm vướng bận bước chân du
hóa của Tổ. Thật vậy, với trí tuệ trong sáng và đức hạnh vô ngã vị tha của
một bậc chân tu đắc đạo, Tổ Tế Giác thong dong tự tại trên đường truyền
pháp. Từ Gia Định ngược dòng ra Huế hoằng hóa, từ Huế lặn lội về vùng
hoang vu sơn dã của các tỉnh miền Tây Nam Bộ để độ sanh, đồng thời chấn
chỉnh việc tu học, mở các trường hương, tổ chức các lớp nội điển cho chư
Tăng tại Tổ đình Giác Lâm, Giác Viên, tu bổ, xây dựng chùa chiền ở Gia
Định và các tỉnh miền Nam, v.v…
Tổ Tế Giác đã giáo dưỡng, un đúc biết bao vị danh tăng làm nên đạo cả,
giữ gìn mạng mạch Phật pháp trường tồn. Ngài gánh vác công việc hoằng
dương đạo pháp chẳng ngại gian lao, chẳng biết mỏi mệt, được Tăng chúng,
tín đồ hết lòng kính ngưỡng.
Với công đức ấy, ngài Tế Giác-Quảng Châu hay Tiên Giác-Hải Tịnh đã
trở thành Tổ sư của cả 3 tông: Lâm Tế Chánh Tông, Lâm Tế Gia Phổ và Tế
Thượng Chánh Tông. Phải nói đó là một điều hiếm có trong PG vậy.
Và vị đệ tử nổi bật nhất của ngài Tế Giác là danh tăng Minh KhiêmHoằng Ân cũng nối chí ngài, trở thành Tổ sư kế thừa được hai dòng Thiền:
Lâm Tế Chánh Tông và Lâm Tế Gia Phổ.
Có thể khẳng định Tổ Tế Giác-Quảng Châu hay Tiên Giác-Hải Tịnh đã
đóng vai trò rất quan trọng đối với PG miền Nam vào thế kỷ XIX. Ngài đã
đưa PG miền Nam vào tổ chức hệ thống chặt chẽ, đào tạo rất nhiều nhân tài
cho đạo pháp, chấn chỉnh lại khoa ứng phú theo đúng hướng Phật dạy.
Riêng bản thân tôi, cũng may mắn được xuất thân tu học từ Tổ đình Huê
Nghiêm, một Tổ đình tiêu biểu sản sanh ra nhiều vị danh tăng thạc đức đã
thể hiện tinh ba của đạo Phật, làm lợi ích cho đời, rạng danh cho đạo, mà ở
đây chúng tôi chỉ đề cập đến Tổ sư Tế Giác-Quảng Châu hay Tiên Giác-Hải
Tịnh với vài nét sơ lược.
Thừa kế được công đức của chư vị Tổ sư tiền bối thuộc dòng Lâm
Tế Chánh Tông, Lâm Tế Gia Phổ và Tế Thượng Chánh Tông, thừa kế chân
tinh thần vô ngã vị tha của các Ngài, tôi cũng vững bước tiến trên đường
phát huy sự nghiệp hoằng dương chánh pháp, nỗ lực thắp sáng ngọn đèn từ
bi, trí tuệ của Đức Từ Tôn, làm lợi lạc chúng hữu tình.

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Scroll to Top