Quá trình Đô thị hóa Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh

Với lịch sử chỉ hơn 300 năm, TPHCM có tuổi đời non trẻ so với các đô thị cổ khác ở Việt Nam.  Nhưng nếu như hầu hết các đô thị cổ Việt Nam đều đã trải qua tình trạng bất động kéo dài nhiều thế kỷ trong sức trì kéo dai dẳng của nông thôn, nông nghiệp và nông dân, thì Sài Gòn- TPHCM đã vận động theo chiều ngược lại. Ngay từ buổi bình minh tạo lập, thành phố này đã luôn luôn tiến bước trong một tiến trình đô thị hoá gia tốc.

Chợ Bà Chiểu 1960s

Bảo tàng Mỹ thuật TP.HCM (đường Phó Đức Chính, quận 1), nằm gần chợ Bến Thành, có diện tích khoảng 4.000 m2. Tòa nhà do con cháu ông Hứa Bổn Hòa xây dựng năm 1929 và hoàn thành sau 5 năm, kiến trúc sư người Pháp Rivera thiết kế.
Lực đẩy của tiến trình đô thị hoá đó không đơn giản chỉ dựa vào lợi thế từ các tặng vật vô giá của vùng đất mới, của vị trí và thiên nhiên, cũng không khởi nguồn từ một thứ quyền lực cổ điển của phần “đô” do chính quyền chi phối và kiểm soát. Do đó thành phố không phải chịu sự khống chế toàn diện của phần “đô” như đa số các đô thị cổ khác. 
Biệt thự Nguyễn Văn Hảo
Bản chất đô thị hoá tại TPHCM chính là kết quả của sức sống và sức hút từ phần “thị”. Mô hình đô thị “từ dưới lên” đó đã ươm mầm cho một quá trình phát triển năng động, đầy thực tiễn, tạo nên nội lực vững vàng về kinh tế để không phải dựa vào thiết chế hành chính như “một lý do để tồn tại”. Quá trình đó tạo nên vị thế của một đô thị lớn- trung tâm kinh tế, trung tâm giao lưu quốc tế hàng đầu của cả nước. Quá trình đó đã hun đúc, đắp bồi cho thành phố tính chất đô thị rõ nét, hình thành nên cung cách, lối sống thị dân như là một trong những đặc trưng nổi bật của văn hoá xuyên suốt các thăng trầm lịch sử.
Đa tộc người trong văn hóa
Những thế hệ lưu dân tiên phong người Việt đã khởi tạo tính chất năng động, phóng khoáng như một thành tố của lối sống người đi mở đất. Những cộng đồng di dân tiếp nối đã tiếp tục đắp bồi những dáng nét đa dạng của văn hoá bốn phương. Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay, thành phố tiếp tục là nơi thu hút mạnh mẽ các cộng đồng người nước ngoài đến đầu tư, sinh sống, học tập và làm việc. Chính vì thế, chúng ta có thể tìm thấy ở TPHCM không chỉ là bức tranh đa dạng về kiến trúc đô thị, mà còn là những dấu ấn đa sắc về văn hoá phi vật thể, những sản phẩm của mọi miền và nhiều quốc gia, thể hiện nên sự đa dạng của các giá trị văn hoá.
Sự phân bố khu vực dân cư của các cộng đồng dân tộc tại TPHCM hoàn toàn không có tính chất khép kín, mà là quan hệ mở và có phần giao thoa lẫn nhau trên những không gian có đường viền địa lý không rõ nét.
Trung tâm Chợ Lớn thường được xem là địa bàn của người Hoa, nhưng đây cũng là nơi tập trung nhiều người Việt sinh sống. Các khu cư trú của người Khmere và người Chăm trên thực tế chỉ là những định danh mang tính biểu trưng tinh thần hơn là những thực thể địa lý nhất định, và chúng luôn hoà lẫn vào không gian cư trú của người Kinh.
Các công trình kiến trúc, các khu vực đô thị phong cách Pháp nay đã trở thành di sản đô thị, là niềm tự hào của các thế hệ công dân Sài Gòn -TPHCM. Tính chất đa tộc người trong văn hoá, mối quan hệ thân thiện giữa các cộng đồng đa dạng đó là một tài sản vô giá mà không phải t hành phố nào cũng có được. Đó là một trong những yếu tố rất quan trọng làm cho tính chất cởi mở năng động ngấm sâu vào cơ thể đô thị TPHCM như một năng lực nội sinh. Do vậy mà thành phố này không bị bó chặt vào những phương thức cũ, mà luôn luôn thể hiện m ột khả năng nhạy cảm nhất định với các yếu tố mới trong văn hoá.
Đặc trưng tự nhiên tạo nên tiền đề cho quá trình đa dạng văn hoá của thành phố về cơ bản có thể được đúc kết thành ba yếu tố

Yếu tố vùng đất mới: trước thế kỉ XVII, Sài Gòn còn là một vùng rừng rậm hoang vu với hệ sinh thái nguyên sinh, dân cư thưa thớt. Nhiều bài học lịch sử cho thấy các vùng đất mới chứa đựng bất trắc, hiểm nguy, nhưng luôn là mảnh đất có sức hấp dẫn mạnh mẽ. Đây là vùng đất vừa lạ lẫm, lại vừa thu hút con người. “Đất mới, con người cũng mới, trên vai không trĩu nặng những lề thói, hủ tục ngàn năm, nên con người mạnh bạo, năng động, cởi mở hơn” (GS. Ngô Đức Thịnh) 
Điều kiện tự nhiên thuận lợi: rất dễ nhận thấy rằng Sài Gòn-TPHCM là vùng đất được thiên nhiên ưu đãi, mưa thuận gió hoà, đất đai phì nhiêu, hầu như chưa bao giờ chịu tác động mạnh của các dạng thiên tai như núi lửa, động đất, bão lụt. Nơi đây phong thổ lý tưởng, khí hậu không lạnh như phương Bắc, cũng không nóng bức như miền Trung.
Những ưu điểm tự nhiên này tồn tại lâu dài đã là tiền đề biến Sài Gòn thành một điểm đến hấp dẫn của các lưu dân tứ xứ, tạo cho con người nơi đây lối sống phóng khoáng, tự do. Điều kiện tự nhiên nơi đây cũng là nguyên nhân tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình xây dựng công trình, không cần phải lưu ý nhiều đến việc chống chọi với những tác động mạnh mẽ của thiên tai như nhiều khu vực đô thị khác của đất nước.
Giao thông thuận lợi: Sài Gòn là vùng đất sông nước. Hệ thống sông, kênh, rạch chằng chịt, cộng với hơn 12 km bờ biển đã biến nơi đây thành một cửa ngõ giao thương với nhiều vùng đất trên thế giới. Lịch sử và cả hiện tại cho thấy các đô thị có điều kiện giao thông thuận lợi đều có cơ hội để sớm phát triển thành nơi “trên bến dưới thuyền”, thành đô thị thương mại, và tất yếu sẽ dễ trở thành nơi giao lưu của nhiều luồng văn hoá.
Đối với yếu tố công nghệ và kỹ thuật, Sài Gòn-TPHCM có được diện mạo, trình độ phát triển như ngày nay chính là do tác động không nhỏ của việc áp dụng các thành tựu công nghệ- kỹ thuật trong quá trình giao lưu văn hoá, đặc biệt là với văn hoá phương Tây.
Kiến trúc dân gian đô thị 

Tại trung tâm hiện hữu, nếu như phần “đô” với những công trình lịch sử truyền thống đã bị san bằng trong diễn tiến đô thị hoá hiện đại, thì dấu ấn của phố thị Sài Gòn truyền thống vẫn tiếp tục hiện diện thông qua các biểu hiện đa dạng của kiến trúc nhà ống. 
Không ảnh Sài Gòn xưa
Do hạn chế về không gian chiều rộng, nhà ống được bố cục theo hướng vươn ra đường phố, kết nối chặt với tất cả các hoạt động đường phố để tiếp nhận các hoạt động mua bán-kinh doanh. Sự dày đặc và phức tạp của bố cục khu phố theo dạng nhà ống phản ánh quan niệm xây dựng “quy mô nhỏ”, nhưng nó tạo ra khả năng tiếp cận dễ dàng để nối kết con người với hoạt động đô thị, tạo ra cảnh quan kiến trúc đô thị sống động, thân thiện với tính chất giao tiếp rõ nét. 
Về quy mô và hình thức, kiến trúc nhà ống có những biểu hiện đa dạng thông qua quá trình cách tân liên tục.
Trước năm 1954, nhà ống được thiết kế và xây dựng thành những dãy phố thương mại đồng bộ, liền lạc về quy mô và hình thức. Các dãy nhà này tập trung nhiều nhất trên các địa bàn phố chợ (Chợ Cũ, chợ Bến Thành), và trên cả các trục đường cảnh quan sầm uất nhất như Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Đồng Khởi. Công trình thường có quy mô từ hai đến ba tầng. Hình thức kiến trúc mang tính chiết trung Tân cổ điển phương Tây, hoặc chiết trung trên cơ sở kết hợp các phong cách Hoa -Âu. Kiến trúc dãy phố liền lạc, sử dụng chung bộ mái ngói, thống nhất định dạng cửa sổ hình chữ nhật hoặc tạo thành
dãy cuốn liên tục.
Sau năm 1954, nhà ống phần lớn được xây dựng dưới hình thức tự phân lô, với quá trình tách thửa những dãy phố thương mại hoặc những khu đất lớn đã có từ trước. Nó phản ánh tính chất tự phát với sự chênh lệch về chiều cao và sự đa dạng về hình thức, màu sắc, vật liệu kiến trúc. Hình thức công trình trước thập niên 1990 tương đối đơn giản theo phong cách Hiện đại, với vật liệu đá rửa tạo nên sắc xám chủ đạo. 
Sau thập niên 1990, sự đa dạng về chiều cao, vật liệu và hình thức đã làm gia tăng sự tương phản giữa các công trình, làm ảnh hưởng đến hình ảnh kiến trúc đô thị.
Không giống như nhiều thành phố lớn tại châu Á, nơi người ta từng can thiệp, thay đổi, thậm chí đào thải loại hình nhà ống ra khỏ i cơ thể đô thị, nhà ống tại TPHCM vẫn tiếp tục tồn tại, biến thái, tái sinh trong những biểu hiện đa dạng. Sự đa dạng đó góp phần tạo nên nét hấp dẫn văn hoá, phản ánh đặc trưng cuộc sống đô thị đời thường trong chân dung kiến trúc đô thị khu vực trung tâm hiện hữu.
Kiến trúc Phương Tây

Hình thức kiến trúc thực dân tiên kỳ: “Kiến trúc kiểu trại lính”
Hình thức này xuất hiện ở các công trình đồn binh, trại lính, bệnh viện – là những công cụ trực tiếp phục vụ cho bộ máy quân sự trong thời kỳ đầu. Các sĩ quan công binh Pháp đã tạo ra một hình thức kiến trúc nhiệt đới thô sơ với mặt bằng hình chữ nhật đơn giản có hành lang rộng bao quanh tạo nên các dãy cuốn liên tục. 
Một số công trình hiện nay vẫn còn tồn tại, như các toà nhà đại học tại giao lộ Lê Duẩn-Đinh Tiên Hoàng, bệnh viện Nhi Đồng 2…
Ngoài ra thời kỳ này còn có một số công trình dân dụng có giá trị. Điển hình là Bến Nhà Rồng (năm 1862) với những kết hợp đầu tiên của kiến trúc Đông-Tây, công trình trụ sở Hải quan (năm 1872).
 Phong cách Chiết trung Tân Cổ điển
Phong cách này xuất hiện tại những công trình lớn đầu tiên được xây dựng từ nửa sau thế kỷ XIX, mà trình tự xây dựng của nó phản ánh rõ logic của quá trình phát triển kiến trúc đô thị với ý đồ biểu dương quyền lực tại thuộc địa. Dinh Toàn quyền là biểu tượng cho sức mạnh chính trị (năm 1869), Nhà thờ hướng đến chinh phục tôn giáo (năm 1880), và Tòa án (năm 1885). Tiếp đó là những công trình công cộng, công sở và cư trú. Có thể kể đến những cái tên nổ i bật như dinh Thống đốc Nam kỳ, Bưu điện, Nhà hát, Dinh Xã Tây …
Về tổng thể, kiến trúc thời kỳ này chịu ảnh hưởng của trường phái Beaux -Arts, công trình có bố cục đối xứng, hình khối cân bằng, tính chất trang nghiêm và tinh tế. Về chi tiết, có thể nhận ra màu sắc chiết trung trong sự phối kết của các phong cách khác nhau trong công trình, mà chủ đạo là phong cách Tân Cổ điển, kết hợp với các đặc điểm Phục Hưng, Barocco, Roccoco, Romanesque…
Đây là thời kỳ của những công trình hoành tráng, mà kích thước đồ sộ của nó phản ánh rõ tính biểu tượng về quyền lực. Các công trình này thường toạ lạc tại những vị trí nổi bật trong bố cục không gian trung tâm đô thị.

Phong cách kiến trúc “Đông Dương”
Quan niệm “dung nạp và hội nhập văn hoá” được hình thàn h và thể hiện qua các công trình có phong cách phản ánh được, ở một mức độ nhất định, sự thích ứng với môi trường tự nhiên và văn hoá địa phương. Sự hình thành một phong cách mới, kết hợp thành tựu công nghệ và văn hoá Pháp với truyền thống văn hoá, điều k iện tự nhiên và kiến trúc bản địa là xu hướng mang tính chiết trung nhưng biện chứng, do kiến trúc sư Ernest Hébrard khởi xướng từ thập niên 1920, mà về sau thường được gọi là “phong cách Đông Dương”.
Công trình mang phong cách Đông Dương tiêu biểu tại trung tâm hiện hữu là Bảo tàng Lịch sử tại Thảo Cầm viên, (ngoài ra còn có thể kể đến các công trình ở Chợ Lớn như trường trung học Lê Hồng Phong, Chợ Bình Tây). Phong cách kiến trúc thể hiện được sự dung hoà giữa kiến trúc phương Đông (cấu trúc mái và các chi tiết trang trí) với kỹ thuật và tổ chức mặt bằng theo nguyên tắc hiện đại phương Tây.
Những thử nghiệm kiến trúc hiện đại
Bên cạnh phong cách Đông Dương, Sài Gòn còn là một trong những đô thị thuộc địa được áp dụng những thử nghiệm kiến trúc theo phong cách hiện đại. Phong cách Art Deco là một trào lưu thịnh hành từ đầu những năm 1920 tại Âu -Mỹ và một số các quốc gia thuộc địa. Kiến trúc có hình khối, đường nét đơn giản, kết hợp với những chi tiết trang trí tinh tế và tao nhã. Tiêu biểu là các công trình Ngân hàng Đông Dương, Trung tâm Giao dịch chứng khoán, Viện mắt Saint Paul, một số biệt thự tại
quận 3…
Phong cách Hiện đại do các kiến trúc sư Việt Nam được đào tạo từ những năm 1920 tại trường Mỹ thuật Đông Dương thực hiện . Điển hình là kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát với thiết kế biệt thự đường Nguyễn Đình Chiểu (nay thuộc lãnh sự quán Nhật Bản), và Câu lạc bộ Thuỷ quân cũ (nay là văn phòng II Chính phủ). Tuy số lượng công trình không nhiều, nhưng các công trình này vẫn phản ánh được những tìm tòi mang tính chất hiện đại về kỹ thuật và hình thức kiến trúc trong điều kiện môi trường nhiệt đới ngay từ những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XX tại thành phố.
Kiến trúc Hiện đại
Từ năm 1954 đến 1975, kiến trúc Sài Gòn-TPHCM chuyển sang một giai đoạn mới với những thành tựu mới, để lại những giá trị cần khẳng định. Quá trình giao lưu với các nước tư bản phương Tây đã tạo điều kiện tiếp nối cho sự hội nhập của các trào lưu nghệ thuật hiện đại trên thế giới. Trong đó phong cách kiến trúc Hiện đại đã góp phần làm thay đổi diện mạo kiến trúc Sài Gòn. Bên cạnh một số ví dụ thành công do người nước ngoài thực hiện, có thể ghi nhận rất nhiều thành tựu do chính đội ngũ kiến trúc sư người Việt thiết kế, do người Việt thi công, đạt tiêu chuẩn hiện đại quốc tế.
Công trình có đặc điểm chung là hình khối đơn giản, đa dạng về quy mô tầng cao, vật liệu xây dựng bêtông cốt thép, nhôm kính, chất liệu hoàn thiện là đá rửa hoặc gạch mozaic. Người thiết kế đã sử dụng có chủ đích các chi tiết cấu tạo đặc thù như ô văng, tường hoa dạng “bông gió”, hệ lam che chắn nắng và hành lang phù hợp với khí hậu nhiệt đới nóng ẩm.
Kiến trúc Hiện đại ở Sài Gòn đã được các kiến trúc sư người Việt kết hợp khá nhuần nhuyễn các yếu tố kỹ thuật, nguyên lý thiết kế hiện đại phương Tây với văn hoá phương Đông, khai thác các đặc trưng văn hoá truyền thống trong công trình một cách tinh tế, sáng tạo nên những tác phẩm đáng được trân trọng. Có thể kể đến những công trình tiêu biểu nhất: Thư viện Khoa học Tổng hợp với thiết kế của kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thiện, Dinh Thống Nhất của Ngô Viết Thụ, Bệnh viện Thống Nhất của Trần Đình Quyền, Trung tâm Văn hoá Pháp của Nguyễn Quang Nhạc, Trụ sở ngân hàng Việt Nam Thương tín của văn phòng kiến trúc sư Nhạc -Thâng-Hoa.
Một đặc điểm rất đáng lưu ý là dù cho sự khác biệt về phong cách giữa kiến trúc Hiện đại với các biểu hiện trước đó của kiến trúc Pháp là một thực tế hiển nhiên, thì sự xuất hiện của các công trình mới vẫn không làm phá vỡ đặc trưng kiến trúc đô thị của Sài Gòn. Bên cạnh một số ít công trình có chiều cao từ 10 đến 16 tầng tại các trục đường lớn, đa số các công trình Hiện đại đều có quy mô chiều cao không quá lấn át so với quy mô chung của khu vực. Tính chiều hướng của đô thị tiếp tục được duy trì theo phương vị ngang truyền thống. Do đó bức tranh tổng thể về kiến trúc thời kỳ 1954-1975, trong một chừng mực nhất định, đã khắc hoạ được tính đa dạng nhưng liên tục của quá trình phát triển đô thị tại khu vực trung tâm thành phố.
Kiến trúc đương đại
Từ sau thời kỳ mở cửa, quá trình phục hồi mạnh mẽ của hoạt động xây dựng tại thành phố đã thúc đẩy sự phát triển những công trình cao tầng với công nghệ và vật liệu xây dựng mới. Nhiều công trình được xử lý mặt ngoài theo cấu trúc vỏ bao che bằng kính hoặc hợp kim đã làm cho hình ảnh kiến trúc đường phố sinh động hơn so với diện mạo bằng đá rửa của các thời kỳ trước.
Sự đa dạng về quy mô chiều cao xuất hiện như một kết quả hiển nhiên của sự chuyển đổi phương thức xây dựng từ thấp tầng sang cao tầng. Trước năm 1954, chiều hướng chủ đạo của công trình kiến trúc tại trung tâm là phương vị ngang thấp tầng. Từ những năm 1950 đến 1990, phương vị ngang vẫn là yếu tố chủ đạo bên cạnh sự xuất hiện của một số ít công trình cao tầng tại những đại lộ trung tâm như Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Hàm Nghi.
Từ thập niên 1990 đến nay, phương vị công trình tại trung tâm đã chuyển đổi nhanh chóng từ phương ngang sang chiều đứng. Một đặc điểm đáng lưu ý là phần lớn các công trình cao tầng tại trung tâm hiện hữu đều tổ chức khối đế thương mại với quy mô chiều cao thân thiện, bố cục liền lạc với mặt phố. Đặc điểm này đã góp phần làm giảm nhẹ sự tương phản giữa công trình cao tầng với không gian đô thị lịch sử trên cả hai mặt chức năng và hình ảnh đô thị. Tuy vậy vẫn rất cần chỉ ra rằng, công trình cao tầng đã làm biến đổi rõ nét tính chất của đường chân trời – bóng dáng đô thị.
 Nếu như Hà Nội và nhiều đô thị lịch sử lâu đời khác có bóng dáng đô thị theo dạng “lòng chảo” với
phần trũng là trung tâm lịch sử. Thì tại TPHCM, bóng dáng đô thị đang được phát triển theo dạng “hình tháp” với quy mô cao dần về trung tâm, và phần đỉnh tháp tiệm cận với không gian trung tâm lịch sử. Thực trạng này đặt ra yêu cầu phải có những giải pháp t ổ chức chiều cao thận trọng hơn để bảo vệ giá trị của các không gian di sản.
Trích Luận án Tiến sĩ của KTS Phạm Phú Cường 

DUY TRÌ VÀ CHUYỂN TẢI CÁC GIÁ TRỊ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ ĐẶC TRƯNG TRONG BỐI CẢNH PHÁT TRIỂN MỞ RỘNG KHU VỰC TRUNG TÂM HIỆN HỮU THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Scroll to Top